Giới thiệu Xây dựng thiết kế viện bảo tàng Tỉnh Hà Giang

bảo tàng lịch sử việt nam tại hà nội


http://thietkebaotang.com/

Ở các nước có ngành bảo tồn tăng trưởng, hầu hết các bảo tàng đều có trọng tâm, phòng hoặc phòng ban chuyên trách hoạt động GD. Các cán bộ giáo dục có một vai trò rất quan trọng, họ là những người được tập huấn, có sự hiểu biết về bảo tồn và các sưu tập bảo tồn, có nhiệm vụ giúp công chúng - đặc trưng là trẻ mỏ học và dùng bảo tồn. Họ ngày một được tham dự hăng hái hơn vào công đoạn tổ chức trưng bày, trực tiếp vào việc bề ngoài ý tưởng, chủ đề, ND, các giải pháp trưng bày... tức là các khâu quan yếu nhất của công tác tổ chức triển lãm hiện vật bảo tồn.

Từ chỗ là các sưu tập được cất giữ để điển tích vì giá trị tiền tệ của hiện vật, hoặc là những sưu tập hiện vật lạ được Tham khảo vì tính quí hiếm, độc nhất vô nhị, bảo tàng đã ra đời, PT, theo nghĩa rộng nhất được hiểu là “cơ quan được ủy thác giữ giàng các của cải của con người và vì ích trong mai sau của loài người. Giá trị của nó là ở sự đáp ứng xứng đáng cho đời sống tình cảm và ý thức của loài người…”.(1)

Cùng với giai đoạn phát triển lịch sử, bảo tàng có một vai trò ngày càng lớn trong xã hội, chức năng của bảo tồn luôn được bổ sung, đáp ứng các nhu cầu từng lớp. Ngày nay, bảo tồn phổ biến về hình thức, tính chất, quy mô, hình thức đơn vị nhưng vẫn thực hành các chức năng mang tính truyền thống và các chức năng mới. mặc dầu còn tồn tại một số ý kiến khác nhau, nhưng cơ bản các quan điểm đều thống nhất bảo tồn có các chức năng tầng lớp sau: chức năng nghiên cứu công nghệ, chức năng giáo dục khoa học, chức năng bảo tồn di sản văn hóa, chức năng tài liệu hóa kỹ thuật, chức năng thông báo, chức năng giải trí và hưởng thụ văn hóa. Trong đó, nghiên cứu khoa học và giáo dục khoa học là hai chức năng căn bản thường được nhắc đến.

Vài nét về công việc GD ở các bảo tàng Đất Việt

Ở Đất Việt, nhận thức về hđ GD của bảo tàng bây chừ cũng đã có những chuyển biến đáng ghi nhận, đó chấm dứt là tuyên truyền – truyền bá một chiều những nội dung được chuẩn bị trước của bảo tồn tới công chúng. định nghĩa “tuyên truyền” dần được thay thế bằng định nghĩa “GD”, tức thị cách tân phương pháp tiếp cận để bảo tồn có thể có nhiều hoạt động mang tính GD nhiều và chất lượng cao hơn nhằm cuộn khách đến với mình và đóng góp nhiều hơn cho từng lớp.

Và chung cục, công tác GD của bảo tồn có đạt được tác dụng hay không, chẳng thể không nói đến vai trò của các cán bộ GD, để thực thụ là cầu nối giữa bảo tồn và công chúng, các cán bộ GD cần tự trau dồi và tăng năng lực. Họ cần được tập huấn để trở thành giỏi hơn, làm việc có tính sư phạm hơn để có thể công ty được những chương trình GD thích hợp với từng đối tượng công chúng khác nhau, bởi GD của bảo tàng không phải chỉ là giáo dục trẻ thơ mặc dầu trẻ thơ có thể là lượng khách tham quan chính của bảo tàng.


Đây là khoảng trống giúp học trò trải nghiệm, ảnh hưởng, bàn bạc, đàm đạo, học tập, đoàn luyện các kỹ năng và trình diễn.# sự sáng tạo của mình qua các hđ học mà chơi, chơi mà học theo hướng giáo dục hăng hái. Những hđ này gắn với ND trưng bày của mỗi bảo tàng và gần gũi với một số môn học tại nhà trường. ngoại giả, để tạo sân chơi bổ ích cho trẻ con, các bảo tồn còn đơn vị những sự kiện mang tính tập thể với những trò chơi trí tuệ vấn sự dự số đông của các em thiếu nhi nhân Tết Thiếu nhi 1/6, Tết Trung thu... chẳng thể không nói đến đến mô hình Câu lạc bộ “Em yêu lịch sử” và “Giờ học lịch sử tại bảo tàng” của bảo tồn Lịch sử nhà nước, mô hình này thành lập từ năm 2007 và mau chóng trở thành sân chơi có ích, lý thú, thu hút học trò phổ biến trên địa bàn HN. hoạt động mang tính “liên quan”, lại được đơn vị theo từng chuyên đề, Câu lạc bộ này đã trở nên điểm đến hấp dẫn, tạo cho các em chủ động tìm hiểu vấn đề dựa vào sự gợi mở của đay từ những hiện vật di sản cụ thể sinh động. Điều này đã gây hứng thú học tập, phát huy tính tích cực và sáng tạo của học trò, củng cố và bổ trợ kiến thức cho các giờ học nội khóa, tạo môi trường và không khí học tập mới trong môn Lịch sử ở trường phổ thông, giúp các em yêu mến, hứng, say mê tìm hiểu đối với môn Lịch sử ở trường nói riêng và lịch sử dân tộc nói chung.
ngoại giả, cho dù đã có những cải cách tích cực từ nhận thức cho đến hđ như đã nói ở trên (trừ số ít) thì nhìn chung các bảo tàng ở Việt Nam vẫn chưa thật sự thu hút được công chúng, đặc thù là bạn trẻ, trong đó sự thiếu hụt, trống trải các chương trình giáo dục công chúng tại bảo tồn là một trong những thách thức làm khuyến mại trị bảo tồn và vai trò của bảo tồn ở nước ta.

Về căn bản các chương trình giáo dục của bảo tàng đều xây dựng theo chủ đề của các bộ sưu tập của bảo tàng, tuy nhiên, căn cứ vào nhu cầu của công chúng, các hoạt động GD còn mở mang ra các lĩnh vực khác như: triết học, văn học, phong cách, diễn kịch hoặc các ND có tính thực tiễn gắn với đời sống hiện đại. Đến bảo tàng, trẻ nít được học vẽ, sáng tác truyện tranh, hoạt hình, chụp ảnh, quay phim và tự làm những phim ngắn; có thể đăng ký những lớp học làm làm vườn, làm đồ tay chân, nấu bếp, làm bánh ... Nhiều câu lạc bộ đã được ra đời tại nhiều bảo tồn để phục vụ nhu cầu nghiên cứu, học tập, giao thiệp theo nhóm rất công dụng.

Tại các bảo tàng đã hình thành phòng giáo dục, giáo dục - Công chúng; hay Tuyên truyền- giáo dục hoặc có phòng ban, cán bộ chuyên trách về công tác GD. Cùng với đó là việc công ty các hoạt động dành cho công chúng mang tính GD như đơn vị các hđ tác động, trải nghiệm cho các đối tượng (chủ yếu là học sinh) duyệt y mô hình phòng Khám phá (bảo tàng Dân tộc học Đất Việt, bảo tồn đàn bà Việt Nam, bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam, bảo tồn Hồ Chí Minh…).

Để thực hành tốt chức năng giáo dục, nhằm phát huy tốt Mặt khác vai trò của bảo tồn trong đời sống xã hội, để bảo tồn thật sự quyến rũ, cuộn càng ngày càng đông hơn khách tham quan, các bảo tồn cần không ngừng cải cách, đa dạng hóa các hđ, hướng tới mục tiêu cung cấp công chúng một cách tốt nhất. Bởi tính giáo dục không chỉ thuộc về những người làm công tác GD. Để tạo được môi trường tốt cho khách tham quan, học tập, các trưng bày của bảo tàng phải hấp dẫn và có tính GD, gắn với nhu cầu của từng lớp đương đại, nhu cầu của công chúng. thông báo về cuộc trưng bày phải được chuyển tới công chúng trước khi họ đến với bảo tàng để họ có sự chuẩn bị trước về những điều họ sẽ được học. Các bài viết trưng bày phải ngắn gọn, dễ hiểu và khuyến khích người đọc. bảo tồn phải tạo cho họ sự tiện lợi và thoải mái khi họ đến thăm bảo tồn …
Với đối tượng công chúng là đời trẻ học đường, cùng với việc tạo lập thể tích văn hóa phù hợp để học sinh được tham dự hoạt động sáng tạo tại bảo tồn, thì sự phối hợp và liên kết chặt chẽ giữa các chương trình giáo dục học sinh của các bảo tàng với ngành giáo dục, đặc trưng là các sở giáo dục, các dài, chắc chắn sẽ giúp cho các chương trình giáo dục đạt ý nghĩa cao hơn.

Các chương trình giáo dục được mẫu mã cho từng đối tượng biệt lập như người lớn, con nít, bạn trẻ, sinh viên, xuân đường, người cao tuổi, nhóm gđ, nhóm người thiệt thòi (khiếm thính, khiếm thị, dị tật...) loại hình của các hoạt động giáo dục cũng rất nhiều: Các chương trình tham quan theo chủ đề, triển lãm chuyên đề, các lớp học ngắn hạn, lớp học nâng cao, các cuộc thi, các trò chơi tập thể, đơn vị các sự kiện văn hóa- nghệ thuật… . Phương châm của các chương trình hoạt động trong bảo tồn là quyến rũ, hữu ích, niềm vui và sáng tạo.

bảo tàng ấn độ ở Tỉnh Hà Giang Với sự cải cách về nhận thức từ chỗ bảo tồn lấy hiện vật làm trọng điểm sang lấy cộng đồng xã hội làm trung tâm, vai trò giáo dục trong bảo tồn càng ngày càng được tôn trọng, tác động mạnh mẽ, tích cực đến các hđ khác của bảo tồn. Nó được coi là cơ sở xác lập chiến lược hoạt động tăng trưởng của mỗi bảo tàng, đồng thời, cứ vào ưu thế, đặc điểm riêng biệt và chức năng của mỗi bảo tàng rõ ràng để đa dạng hóa các hình thức hđ đáp ứng nhu cầu chính đáng của công chúng.
Ngày nay, hđ truyền bá trí thức - giáo dục của bảo tồn không còn là sự chuyển giao một chiều từ người giáo dục (hướng dẫn, thuyết minh viên) sang người được GD (khách tham quan) mà là sự luận bàn hai chiều, liên quan tương tác lẫn nhau. Người ta không chỉ quan hoài đến việc bảo tàng “dạy” gì cho công chúng, mà quan trọng hơn là “công chúng học bằng cách trải nghiệm như thế nào”. Ở đây, công chúng là người học “chủ động” chứ chấm dứt là người nghe “thụ động” nữa. Công chúng được tiếp cận nhiều chiều để tự rút ra những trải nghiệm, tự đúc kết những bài học, những tri thức mới cho mình chứ chẳng hề chỉ một chiều.

Nhận xét

Bài đăng phổ biến